Phẫu thuật bentall là gì? Các công bố khoa học về Phẫu thuật bentall

Phẫu thuật Bentall là một phẫu thuật cơ sở để điều trị suy tim nặng do bệnh căn mạch và bệnh van bị hoại tử. Phẫu thuật này được đặt tên theo tên của bác sĩ Dav...

Phẫu thuật Bentall là một phẫu thuật cơ sở để điều trị suy tim nặng do bệnh căn mạch và bệnh van bị hoại tử. Phẫu thuật này được đặt tên theo tên của bác sĩ David Bentall, người đã phát minh ra phương pháp này vào những năm 1960. Phẫu thuật Bentall kết hợp việc thay thế van tim bị hoại tử bằng một van nhân tạo và thay thế phần gốc của căn mạch bị tắc nghẽn bằng một ống gốc nhân tạo. Qua đó, phẫu thuật cung cấp sự thoáng máu tốt hơn và phục hồi chức năng tim.
Phẫu thuật Bentall là một phẫu thuật rất phức tạp và thường được thực hiện để điều trị những bệnh tim nghiêm trọng liên quan đến van tim và căn mạch.

Quá trình phẫu thuật bắt đầu bằng việc tiếp cận tim thông qua một cắt ngang ngực. Sau đó, bác sĩ sẽ tiến hành thay thế van aorta và gốc căn mạch bị tổn thương.

Về phần van aorta, van cũ bị loại bỏ và được thay thế bằng một van nhân tạo khác. Van nhân tạo này thường được làm bằng một chất liệu có tính chất biologic và vật liệu công nghệ cao, nhằm đảm bảo khả năng chống co và đối kháng với các yếu tố hiếu khí, như cả acid nucleic và làm kín hơi. Van nhân tạo được cố định vào vách động mạch bằng các đường may chắc chắn để đảm bảo lưu lượng máu thông qua van được điều chỉnh tốt.

Đối với phần gốc căn mạch, bác sĩ sẽ thực hiện thay thế bằng một ống gốc nhân tạo. Mục đích của việc này là khôi phục và duy trì dòng chảy máu thông qua căn mạch để cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho cơ thể.

Sau khi thực hiện các quy trình này, bác sĩ sẽ kiểm tra xem mọi kết nối và van mới đã hoạt động tốt chưa. Các mạch máu lân cận cũng được co bóp và kiểm tra để đảm bảo dòng máu không bị trở ngại.

Phẫu thuật Bentall được coi là phẫu thuật phức tạp và đòi hỏi sự chuyên môn cao từ các bác sĩ và nhóm y tế. Trong một số trường hợp, phẫu thuật có thể được kết hợp với các thủ thuật khác để điều trị các vấn đề tim mạch bổ sung, bao gồm dang tim và cường tim nếu cần thiết.

Sau phẫu thuật, bệnh nhân cần phải theo dõi chặt chẽ và điều trị bằng thuốc để đảm bảo an toàn và phục hồi hoàn toàn. Kế hoạch hậu quả và theo dõi theo thời gian được thiết lập để đảm bảo sự thành công của phẫu thuật.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phẫu thuật bentall":

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA BỆNH LÝ VIÊM NỘI TÂM MẠC NHIỄM TRÙNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng (VNTMNT) là bệnh lí tim mạch không thường gặp nhưng có tỉ lệ tử vong cao và để lại biến chứng nặng nề. Khoảng 50% bệnh nhân mắc bệnh cần  phải điều trị ngoại khoa vì các biến chứng nặng của bệnh. Mục đích điều trị để tránh cho bệnh nhân bị suy tim tiến triển vì tổn thương các cấu trúc trong tim, tránh nhiễm trùng lan rộng và ngăn ngừa thuyên tắc. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả sớm điều trị ngoại khoa bệnh lí VNTMNT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả loạt ca các bệnh nhân (BN) được phẫu thuật điều trị VNTMNT tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01/2020 đến tháng 01/2021. Kết quả: 51 BN với độ tuổi trung bình là 42,1, tỉ lệ nam chiếm 73%, được chẩn đoán VNTMNT có chỉ định phẫu thuật. 86% trường hợp có suy tim NYHA nặng. 37% trường hợp mổ cấp cứu và bán khẩn, 12% mổ lại do VNTMNT trên van nhân tạo. 6 trường hợp được mổ tim ít xâm lấn qua đường ngực phải. Tổn thương sùi trên van 2 lá có 26 BN, sùi trên van động mạch chủ (ĐMC) có 15 BN, sùi trên cả  van 2 lá và van ĐMC có 2 BN, 6 ca có áp xe vòng van. Có 6 trường hợp cấy máu dương tính: 4 trường hợp do Streptococcus spp., 2 trường hợp do Staphyloccus. 23 BN thay van ĐMC, 17 BN thay van hai lá, 22 BN sửa van 2 lá, 7 BN phẫu thuật Bentall. Sau mổ có 3 ca chảy máu phải mổ lại, 39 ca phải dùng ít nhất 1 vận mạch, , 1 ca đặt ECMO, 7 ca có suy thận cấp, 3 ca tử vong sau mổ. Thời gian phẫu thuật trung bình 300 phút (kẹp ĐMC 101 phút) và nằm viện sau mổ trung bình 18,5 ngày. Những BN sống còn ghi nhận đạt kết quả điêu trị tốt tại thời điểm xuất viện, cải thiện lâm sàng NYHA II và không có biến chứng vĩnh viễn. Kết luận: Phẫu thuật điêu trị các trường hợp VNTMNT đạt kết quả tốt với tỉ lệ tử vong sau mổ 5,9% liên quan đến thời gian mổ dài, tình trạng mổ cấp cứu và VNTMNT trên van nhân tạo. Biến chứng suy tim cấp sau mổ thuờng gặp tuy nhiên đáp ứng điều trị nội khoa, không có biến chứng vĩnh viễn.
#viêm nội tâm mạc nhiễm trùng #áp xe #suy tim #sửa van #thay van #phẫu thuật Bentall
Cải tiến phẫu thuật Bentall giúp cải thiện chảy máu sau mổ và tỷ lệ sống còn trung hạn
Đặt vấn đề: phẫu thuật Bentall là tiêu chuẩn cho thay gốc và van động mạch chủ tuy nhiên chảy máu nặng sau mổ vẫn là một thách thức. Nghiên cứu nhằm lượng giá kết quả sớm và kết quả dài hạn của sử dụng ống ghép cải tiến cho phẫu thuật Bentall. Phương pháp: hồi cứu các bệnh nhân được phẫu thuật Bentall theo phương pháp “button” trong giai đoạn 2000-2019. Nhóm 1, 40 bệnh nhân sử dụng ống ghép có van thương mại và nhóm 2 sử dụng ống ghép tự gắn van cải tiến. Kết quả: Các đặc điểm trước mổ tương tự ở cả hai nhóm ngoại trừ tuổi trung bình của nhóm 2 cao hơn. Chảy máu trong 6 giờ đầu (250 so với 370ml, P<0,001)) và nguy cơ mổ lại vì chảy máu ( 4,5% so với 17,5%, P= 0,002) ở nhóm 2 thấp hơn có ý nghĩa. Các biến chứng khác là không khác biệt giữa hai nhóm.Tử vong phẫu thuật là 3. Mổ lại 7 trường hợp. Về dài hạn, nhóm 2 có tỷ lệ sống còn (95% so với 75%) và không mổ lại (95% so với 70%) cao hơn có ý nghĩa ở thời điểm 4 năm sau mổ. Kết luận: ống ghép gắn van cải tiến là an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật Bentall, làm giảm chảy máu sau mổ và cải thiện kết quả dài hạn. Cũng cần nghiên cứu thêm để chứng minh tính hiệu quả và tính khả thi của phương pháp này.
#phẫu thuật Bentall #ống ghép có van tự gắn #bệnh gốc động mạch chủ #chảy máu
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT BENTALL TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ GỐC ĐỘNG MẠCH CHỦ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: 1.Tỷ lệ tử vong và các biến chứng sau phẫu thuật Bentall; 2.Các yếu tố ảnh hưởng đến biến chứng và kết quả phẫu thuật. Phương pháp: hồi cứu, mô tả hàng loạt ca. Kết quả: Từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 6 năm 2022, tại khoa Phẫu thuật tim, bệnh viện Chợ Rẫy có 52 bệnh nhân được phẫu thuật Bentall, trong đó có tuổi trung bình 48±13.76, tỷ lệ nam:nữ = 3:1. Nguyên nhân: phình gốc động mạch chủ 22 ca (44.2%), áp xe gốc động mạch chủ 11(21.2%), bóc tách động mạch chủ 10 ca (19.2%), bệnh lý van động mạch chủ 8 ca (15.4%); phân suất tống máu trung bình (EF) là 60.1±12.6; Mổ chương trình 45 ca (86.5%), mổ cấp cứu 7 ca (13.5%); Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể 213.6±66.7 phút, thời gian kẹp động mạch chủ 160.9±53 phút. Các biến chứng sau mổ: chảy 6 ca (11.5%), suy tim 19 ca (36.5%), suy thận 7 ca(13.5%), rối loạn nhịp 5 ca (9.6%), viêm phổi 4 ca (7.7%), nhiễm trùng huyết 2 ca (3.8%), nhiễm trùng vết mổ 0%. Tử vong 4 ca (7.7%). Kết luận: phẫu thuật Bentall điều trị bệnh lý gốc động mạch chủ cho kết quả sớm chấp nhận được mặc dù vẫn còn là thách thức với tỷ lệ tử vong sớm tương đối cao (7.7%). Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể và thời gian kẹp động mạch chủ ảnh hưởng đến các biến chứng suy tim, suy thận và kết quả phẫu thuật. Riêng thời gian kẹp động mạch ảnh hưởng đến biến chứng chảy máu.
#bệnh lý gốc động mạch chủ #phẫu thuật Bentall
Mối liên hệ giữa phân suất tống máu thất trái và tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật Bentall Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 37 - Trang 1462-1469 - 2022
Nhiễm trùng gốc hoặc sự phân đoạn liên quan đến động mạch vành thường cần một quy trình Bentall khẩn cấp, đặc biệt ở những bệnh nhân có phân suất tống máu thất trái (LVEF) thấp. Ngược lại, đối với phẫu thuật Bentall chọn lọc cho phình động mạch, các bác sĩ phẫu thuật cần cân nhắc giữa lợi ích và rủi ro của ca phẫu thuật, đặc biệt trong những trường hợp LVEF thấp. Chúng tôi đã điều tra mối liên quan giữa LVEF trước phẫu thuật và các kết quả sau phẫu thuật Bentall. Chúng tôi đã phân tích 98 bệnh nhân trải qua phẫu thuật Bentall từ tháng 4 năm 2000 đến tháng 3 năm 2020. Các bệnh nhân được phân nhóm thành ba nhóm: (a) 65 bệnh nhân có LVEF ≥ 60%, (b) 21 bệnh nhân có LVEF từ 45 đến < 60%, và (c) 12 bệnh nhân có LVEF < 45%. Các đặc điểm cơ bản, tỷ lệ tồn tại và các sự kiện tim mạch bất lợi lớn (MACE) được so sánh. Để đánh giá mối quan hệ phi tuyến tính giữa LVEF và tỷ lệ tử vong, phân tích spline bậc ba đã được thực hiện. Độ tuổi trung bình giữa các nhóm là tương tự (a so với b so với c, 52 so với 50 so với 44). Ở tất cả các nhóm, tỷ lệ phình động mạch gốc chọn lọc là 50–60%, cho thấy những bệnh nhân còn lại bị bệnh lý phức tạp. Tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật là cao nhất ở nhóm c (4.6% so với 9.5% so với 16.7%, p = 0.294). Tỷ lệ sống sót và tỷ lệ không có MACE là tồi tệ nhất ở nhóm c, mặc dù tỷ lệ sống 10 năm của họ là 40%. LVEF là yếu tố độc lập ảnh hưởng đến nguy cơ tử vong, và phân tích spline bậc ba cho thấy mối liên hệ phi tuyến tính tiềm tàng giữa LVEF và tử vong. Mặc dù LVEF là một chỉ số dự đoán độc lập về tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật Bentall, tỷ lệ sống sót lâu dài đôi khi vẫn đạt được ở các trường hợp LVEF thấp. Trong khi các bác sĩ phẫu thuật cần cân nhắc cẩn thận giữa nguy cơ của LVEF thấp và lợi ích của phẫu thuật trong các trường hợp chọn lọc, chúng tôi cần thực hiện quy trình không chọn lọc khi cần thiết, ngay cả khi LVEF thấp.
#phân suất tống máu thất trái #phẫu thuật Bentall #tỷ lệ tử vong #sự kiện tim mạch bất lợi lớn
Một trường hợp hiếm gặp về những phình động mạch Sinus of Valsalva không vỡ từ các lỗ với khiếm khuyết một phần ở thành động mạch chủ Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 5 - Trang 1-5 - 2019
Phình động mạch Sinus of Valsalva (SVA) là một tình trạng tương đối hiếm gặp và thường được báo cáo như một dị tật bẩm sinh. Nó thường được tìm thấy ở một sinus Valsalva đơn lẻ nhô ra vào một buồng tim khác và được gọi là SVA nội tâm mạc. Phình thường phát sinh từ chính sinus Valsalva và một lỗ của phình được quan sát bao quanh bởi thành động mạch chủ. Do đó, những SVA ngoại tâm mạc nhiều, phát sinh từ các lỗ có khiếm khuyết phần thành động mạch chủ cực kỳ hiếm. Chúng tôi báo cáo một trường hợp rất hiếm về những SVA ngoại tâm mạc chưa vỡ ở cả hai sinus động mạch vành bên trái và bên phải phát sinh từ vòng động mạch chủ. Một bệnh nhân nam 76 tuổi người Nhật Bản được chẩn đoán có sinus Valsalva phình to qua siêu âm tim ngực trong quá trình theo dõi bệnh lý động mạch ngoại vi. Năm năm sau khi theo dõi cẩn thận, sự gia tăng dần dần của SVA và suy động mạch chủ vừa phải đã được quan sát. Ông được phẫu thuật theo phương pháp Bentall đã được chỉnh sửa, với quá trình sau phẫu thuật không có biến chứng. Trong phẫu thuật, các SVA được tìm thấy ở phần bên trái của cả hai sinus động mạch vành bên trái và bên phải ở cả hai bên giao điểm giữa các lá van động mạch vành trái và phải. Thành động mạch chủ bị thiếu tại đáy SVA gần vòng động mạch chủ. Khám nghiệm mô bệnh học cho thấy chỉ có những thay đổi xơ vữa động mạch nhẹ ở thành động mạch chủ gần các SVA. Nguyên nhân được ước tính có thể là do thoái hóa khu trú của các sinus Valsalva ngay phía trên vòng động mạch chủ hoặc là dị tật bẩm sinh, hoặc là sự kết hợp của cả hai. Chúng tôi báo cáo về trường hợp của những SVA ngoại tâm mạc chưa vỡ nhiều lỗ thiếu hụt lỗ động mạch chủ ngay phía trên vòng động mạch chủ. Không tìm thấy trường hợp nào tương tự trong tài liệu. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày chi tiết về các phát hiện và quy trình phẫu thuật, điều này sẽ hỗ trợ trong việc chọn lựa phương pháp phẫu thuật.
#Sinus of Valsalva; phình động mạch; dị tật bẩm sinh; phẫu thuật Bentall; siêu âm tim.
Dòng chảy đảo ngược trong động mạch vành trước dưới sau khi ghép động mạch ngực trong Dịch bởi AI
Journal of Cardiothoracic Surgery - Tập 17 - Trang 1-4 - 2022
Khả năng dòng chảy của động mạch ngực trong (ITA) tại chỗ không nhất thiết là đủ và có thể là nguyên nhân gây ra hội chứng thiếu máu. Chúng tôi trình bày một trường hợp thảm họa ghép ITA tại chỗ cho tắc nghẽn thân động mạch chính trái đơn độc 13 năm sau phẫu thuật Bentall sửa đổi. Một phụ nữ 33 tuổi đã trải qua phẫu thuật Bentall sửa đổi. Chụp động mạch vành cho thấy một hẹp nghiêm trọng trong động mạch vành trái. Bệnh nhân đã phẫu thuật bắc cầu động mạch vành không sử dụng máy tim phổi khẩn cấp với ITA trái đến động mạch vành trước dưới (LAD). Vào ngày thứ 7, bệnh nhân bị khó thở nặng và huyết áp thấp. Chụp động mạch bằng catheter cho thấy ITA vẫn thông; tuy nhiên, dòng chảy từ ITA tại chỗ bị chậm lại và có dòng chảy đảo ngược từ đỉnh tim trở về đoạn gần LAD. Bệnh nhân đã được cấy ghép thiết bị hỗ trợ tâm thất trái. Việc bắc cầu đồng thời động mạch chủ vào nhánh mạch vành vòng sẽ làm giảm thiểu nguy cơ thiếu máu, đặc biệt đối với những bệnh nhân trẻ mà không có bệnh lý xơ vữa động mạch.
#động mạch ngực trong #dòng chảy đảo ngược #ghép mạch vành #phẫu thuật Bentall #hội chứng thiếu máu
Kết quả phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Đặt vấn đề: phẫu thuật Bentall là một trong những lựa chọn hàng đầu để điều trị các bệnh lý tại vùng gốc động mạch chủ (ĐMC). Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá kết quả sớm và trung hạn sau phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Đối tượng phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả theo dõi dọc. Chúng tôi đánh giá hồi cứu 52 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Tim Hà Nội từ 1/2017 đến 12/2020. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22. Kết quả: tỉ lệ tổn thương do tách thành ĐMC là 36,5%. Tỉ lệ mổ cấp cứu là 30,8%, đều ở BN tách thành ĐMC. 90,4% dùng van cơ học. Tỉ lệ mổ lại sớm do chảy máu là 7,7%, tỉ lệ tử vong sớm là 3,8%. Thời gian theo dõi trung bình sau ra viện là 31,29 ± 17,1 tháng. Tỉ lệ sống theo ức lượng Kaplan-Meier sau 1 năm là 96,2%, sau 3 năm là 92,2%, sau 5 năm là 73,7%. Kết luận: phẫu thuật Bentall tại Bệnh viện Tim Hà Nội cho thấy tính an toàn với kết quả sớm và trung hạn tốt, kể cả trên những trường hợp phải phẫu thuật cấp cứu do tách thành ĐMC.
#phẫu thuật Bentall
Kết quả sớm phẫu thuật bentall tại bệnh viện Bạch Mai
Nghiên cứu hồi cứu trên 44 bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật Bentall đơn thuần hoặc phối hợp với phẫu thuật khác tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2013 đến tháng 3/2016. Tuổi trung bình 49,8 ± 13,8, nam giới chiếm 72,7%. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ gặp nhiều nhất với tỷ lệ 45,5% và phần lớn bệnh nhân (72,7%) khi nhập viện có NYHA III - IV. Thời gian chạy máy tim phổi nhân tạo là 110,30 ± 58,69 (phút) và thời gian cặp động mạch chủ là 64,46 ± 27,22 (phút). Thời gian nằm viện trung bình là 15,16 ± 11,05 ngày với biến chứng sau mổ hay gặp nhất là tràn dịch, tràn khí màng phổi (22,7%). Tử vong tại viện là 9,1%. Đối với bệnh lý van và gốc ĐMC, phẫu thuật Bentall là một sự lựa chọn hợp lý với kết quả sớm tốt. Tuy nhiên để đánh giá một cách đầy đủ thì cần có những nghiên cứu lâu dài hơn.
Tổng số: 8   
  • 1